Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
Số 40 (2015) Trang: 67-74
Tải về

Thông tin chung:

Ngày nhận:12/02/2015

Ngày chấp nhận: 28/10/2015

Title:

Production firms and production efficiency of black tiger shrimp (Penaeus monodon) intensive culture in the Mekong Delta

Từ khóa:

Tôm sú, hình thức nuôi, liên kết, hiệu quả sản xuất, ĐBSCL

Keywords:

Black tiger shrimp, culture firm, integration, production efficiency, Mekong Delta

 

ABSTRACT

This study was carried out from January to December 2012 through random interviewing 6 producing companies of Tiger shrimp seed, 16 nursing households, 24 feed and chemical gents, 91 farms, 12 collector and 9 processing companies in Kien Giang, Soc Trang and Ben Tre province. The results of study shown that linkage of intensive shrimp (Penaeus monodon) farming models was low and only exchanged information (technique, market). Suppliers (breed, feed, chemical) and buyers (colllectors and processors) associated with farming models through supplying and buying with market price. The average area of houseshold (1.36 ha/household) was the smallest in the farming models (29.04-45.28 ha), pond area of farming models (0.45-0.59 ha/pond) were not significant but depth water of farm enterprenuers was highest (1.52 m). Stocking density of companies (26.88 ind./m2) was lower than that in houseshold, farm enterprenuers and cooperative i.e 33.12, 31.57 and 36.25 ind./m2, survival rate and yield of farm enterprenuers and companies were highest: 70.57%, 6.52 tons/ha/crop and 74.5%, 6 tons/ha/crop, respectively. Total production cost was 346.9-391.8 million VND/ha/crop, production cost of houseshold was highest (72.2 thousand VND/kg). Benefit and cost benefit ratio were highest in farm enterprenuers (374.7 million VND/ha/crop, 50.8%) and companies (346.8 million VND/ha/crop, 56.7%). However the lowest profitable rate was in the household. The result of study showed that houseshold is highest risk and less sustainable than other models.

TÓM TẮT

Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 1-12/2012 thông qua việc phỏng vấn 6 công ty (CT) sản xuất giống tôm sú, 16 hộ ương vèo, 24 đại lý thức ăn, thuốc và hóa chất, 91 cơ sở nuôi, 12 cơ sở thu mua và 9 doanh nghiệp chế biến thủy sản tại 3 tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng và Bến Tre. Kết quả nhiên cứu cho thấy mức độ liên kết trong nuôi tôm sú thâm canh hiện nay chưa chặt chẽ chủ yếu thông qua trao đổi thông tin. Các nhân tố đầu vào và đầu ra (giống, thức ăn, thuốc và cơ sở thu mua) trong chuỗi liên kết với người nuôi dưới hình thức cung ứng và bao tiêu theo giá thị trường. Diện tích bình quân ở hình thức nông hộ-NH (1,36 ha) thấp hơn đáng kể so với các hình thức khác (29,04-45,28 ha), diện tích trung bình ao nuôi khác biệt không đáng kể (0,45-0,59 ha/ao) nhưng độ sâu mức nước cao nhất ở hình thức trang trại-TT (1,52 m). Mật độ thả nuôi ở hình thức NH (33,12 con/m2), TT (31,57 con/m2) và tổ hợp tác-THT (36,25 con/m2) cao hơn hình thức CT (26,88 con/m2), tỷ lệ sống và năng suất cao nhất ở hình thức TT và CT lần lượt là 70,57%, 6,52 tấn/ha/vụ và 74,5%, 6 tấn/ha/vụ. Chi phí đầu tư từ 346,9-391,8 tr.đ/ha/vụ, giá thành sản xuất cao nhất ở hình thức NH (76,1 ngàn đồng/kg). Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận cao nhất ở hình thức TT (374,7 tr.đ/ha/vụ, 50,8%), CT (346,8 tr.đ/ha/vụ, 56,7%) và tỷ lệ hộ lời thấp ở hình thức NH (83,7%). Nghiên cứu cho thấy hình thức NH có mức rủi ro cao nhất và kém bền vững hơn so với các hình thức còn lại.

 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...