Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
125 (2021) Trang: 150-156
Tạp chí: Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Liên kết:

Nghiên cứu đánh giá hiệu quả chọn lọc giống cá sặc rằn (Trichopodus pectoralis Regan, 1910) được thực hiện qua hai giai đoạn ương và nuôi giữa đàn cá chọn lọc và đàn cá ngẫu nhiên. Kết quả ương sau 2,5 tháng đàn cá chọn lọc có khối lượng (9,19 ± 1,77 g/con), tỉ lệ sống (29,7 ± 2,1%), hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) (1,22 ± 0,01) và năng suất cá ương (13.663 ± 1.453 kg/ha) tốt hơn (P < 0,05) so với đàn cá ngẫu nhiên (các chỉ tiêu lần lượt là 7,47 ± 1,49 g/con, 21,3 ± 3,1%, 1,33 ± 0,01 và 7.980 ± 1.326 kg/ha). Ở giai đoạn nuôi (7 tháng) đàn cá chọn lọc tiếp tục thể hiện tăng trưởng (143,1 ± 17,7 g/con), tỉ lệ sống (88,7±1,53%), FCR (2,12 ± 0,05) và năng suất (38.051 ± 668 kg/ha) khác biệt có ý nghĩa (P < 0,05) so với đàn cá ngẫu nhiên (132,4 ± 15,3 g/con, 82,7 ± 3,06%, 2,29 ± 0,02 và 31.632 ± 563 kg/ha). Hệ số biến động (CV) giữa hai đàn cá khác biệt không có ý nghĩa (P > 0,05) ở giai đoạn ương và nuôi, hệ số di truyền của cá sặc rằn là 0,75 (± 0,21). Như vậy, đàn cá sặc rằn chọn lọc tập hợp nhiều yếu tố tăng trưởng nhanh góp phần tạo ra con giống chất lượng, cung cấp hiệu quả cho các mô hình nuôi tốt hơn so với đàn cá ngẫu nhiên.

 
Các bài báo khác
Tập 55, Số 3 (2019) Trang: 96-102
Tải về
 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...