Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
Chuyên đề tháng 11/2020: Biến đổi khí hậu và Phát triển nông nghiệp bền vững (2020) Trang: 250-258
Tạp chí: Nông nghiệp & PTNT
Liên kết:

Nghiên cứu đánh giá khả năng chịu mặn trên 20 giống/dòng đậu nành (Glycine max L.) địa phương và
nhập nội được thực hiện trong điều kiện trồng thủy canh bằng dung dịch dinh dưỡng Hoagland. Thí
nghiệm bố trí theo thể thức hai nhân tố (20 x 2) hoàn toàn ngẫu nhiên, với 3 lặp lại cho mỗi nghiệm thức.
Nhân tố thứ nhất 20 giống/dòng đậu nành bao gồm 10 địa phương và 10 nhập nội. Nhân tố thứ hai là độ
mặn bao gồm 2 mức 0 và 100 mM NaCl. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều cao cây giảm 5,7-39,2% và chiều
dài rễ giảm 0,8-34,4% khi cây bị xử lý mặn ở nồng độ 100 mM NaCl. Tương tự ghi nhận sinh khối tươi cây
giảm 5,9-55,8% và sinh khối khô cây giảm 0,99-48,5% khi cây bị xử lý mặn ở nồng độ 100 mM NaCl. Chỉ số
diệp lục trong lá (SPAD) ở tất cả các giống/dòng đậu nành có xu hướng tăng (30,98-45,4) ở cây trồng trong
độ mặn 100 mM NaCl cao hơn so với cây trồng ở nghiệm thức đối chứng (22,6-37,97). Các giống/dòng nhập
nội biểu hiện sinh trưởng và phát triển bị ảnh hưởng bởi độ mặn 100 mM NaCl nhiều hơn so với các
giống/dòng địa phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy các giống/dòng đậu nành khác nhau có phản ứng
khác nhau với độ mặn. Khả năng chịu mặn cao được ghi nhận trên các giống/dòng lai MTĐ 765, MTĐ 878-
22, DT 99 và HL 09-10 và giống địa phương Vàng Hà Giang.

Các bài báo khác
 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...