Đăng nhập
 
Tìm kiếm nâng cao
 
Tên bài báo
Tác giả
Năm xuất bản
Tóm tắt
Lĩnh vực
Phân loại
Số tạp chí
 

Bản tin định kỳ
Báo cáo thường niên
Tạp chí khoa học ĐHCT
Tạp chí tiếng anh ĐHCT
Tạp chí trong nước
Tạp chí quốc tế
Kỷ yếu HN trong nước
Kỷ yếu HN quốc tế
Book chapter
Bài báo - Tạp chí
20/2018 (2018) Trang: 44-50
Tạp chí: Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Liên kết:

Đề tài được thực hiện tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ tháng 06/2016 đến tháng 04/2017 nhằm tìm ra nồng độ Bo và NAA thích hợp nhằm tăng tỷ lệ đậu trái và năng suất xoài Ba Màu. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên 7 nghiệm thức, 4 lần lặp lại mỗi lặp lại tương ứng với một cây. Các nghiệm thức của thí nghiệm bao gồm: 3 nghiệm thức phun 2 lần NAA tương ứng ở các nồng độ 10 ppm, 20 và 40 ppm, 3 nghiệm thức phun Bo lần đầu tương ứng các nồng độ 50, 100 và 150 ppm, sau đó phun lần thứ hai vớiNAA 20 ppm phun và nghiệm thức đối chứng phun nước. Thời điểm phun hóa chất lần 1 là 3 – 5 ngày trước khi hoa nở (TKHN) và lần 2 là  3 – 5 ngày sau khi hoa nở (SKHN).. Kết quả cho thấy phun Bo nồng độ 100 – 150 ppm (3 – 5 ngày trước khi hoa nở – TKHN) kết hợp với NAA 20 ppm (3 – 5 ngày sau khi hoa nở – SKHN) hay phun 2 lần NAA 40 ppm có hiệu quả cải thiện tỷ lệ đậu trái và năng suất trái xoài Ba Màu bình thường. Phun Bo và NAA không làm ảnh hưởng đến các chỉ tiêu phẩm chất trái như tỷ lệ thịt trái, tổng chất rắn hòa tan (TSS), hàm lượng acid tổng số (TA) ở cả 2 loại trái bình thường và trái “cóc”. Có thể phun Bo nồng độ 100 hay 150 ppm 3 – 5 ngày trước khi hoa nở và NAA nồng độ 20 ppm 3 – 5 ngày sau khi ra hoa để cải thiện năng suất trái bình thường xoài Ba Màu tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Cần nghiên cứu thêm nồng độ Bo và NAA cao hơn để xác định ngưỡng tối hảo đối với sự đậu trái và rụng trái non xoài Ba Màu.

Các bài báo khác
Số 20b (2011) Trang: 106-116
Tải về
Số 15b (2010) Trang: 186-196
Tải về
Số 22a (2012) Trang: 242-252
Tải về
Số 52 (2017) Trang: 49-55
Tải về
Số Nông nghiệp 2014 (2014) Trang: 76-84
Tải về
1186 (2018) Trang: 85-98
Tạp chí: ISHS Acta Horticulturae
 


Vietnamese | English






 
 
Vui lòng chờ...